Trước Tiếp theo

Đánh giá: 4/5 - 1 phiếu
Tứ phủ Chầu bà trong tứ phủ thánh mẫu

Tứ Phủ Chầu Bà hay còn gọi là Tứ Phủ Thánh Bà là các vị thánh chầu hầu cận bên Thánh Mẫu thần chủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ của người Việt, gồm mười hai vị nữ thánh được Mẫu giao cai quản khắp nơi trên rừng dưới nước, khắp bốn phương tám hướng trên đất Việt Nam ta.

I. Tứ phủ Chầu bà là gì?

Tứ Phủ Chầu Bà hay còn gọi là Tứ Phủ Thánh Bà là các vị thánh chầu hầu cận bên Thánh Mẫu thần chủ trong tín ngưỡng thờ Mẫu Tam Tứ Phủ của người Việt, gồm mười hai vị nữ thánh được Mẫu giao cai quản khắp nơi trên rừng dưới nước, khắp bốn phương tám hướng trên đất Việt Nam ta. Trong hệ thống tín ngưỡng Tứ Phủ thì Tứ Phủ Chầu Bà đứng sau hàng Ngũ Vị Tôn Quan và đứng trên hàng Tứ Phủ Thánh Hoàng, Tứ Phủ Thánh Cô và Tứ Phủ Thánh Cậu.

II. Tứ phủ Chầu bà gồm những ai?

1. Chầu bà đệ nhất 

Tên đầy đủ:  Đệ nhất thượng thiên công chúa
Tước phong:  Đệ nhất hoa nương công chúa làm việc thượng thiên – Đệ nhất thượng thiên công chúa
Thân thế: Chầu bà đệ nhất được dân ta huyền hóa qua đời thứ nhất mẫu Liễu giáng ở Vị Nhuế, Nam Định.Ngài là hiện thân của Thánh Mẫu đệ nhất, thuộc dòng đi tu, ít khi ngự đồng. Trang phục của Ngài là áo đỏ khăn hồng (khăn buồm). Ngài làm việc trong nội cung phủ Giầy.

2. Chầu bà đệ nhị

Thân thế: Chầu bà đệ nhị thượng ngàn công chúa theo dân gian tương truyền là con gái gia đình người Mán ở Đông Cuông, tên húy là Lê Thị Kiệm, vợ của ông Hà Văn Thiên, người Tày được triều đình giao cai quản vùng Đông Cuông. Bà là hóa thân của Mẫu đệ nhị của chúa. Bà là hình mẫu của dân ta trên cõi thượng ngàn. Chầu bà hạ sinh vào giờ dần ngày Mão tháng giêng năm Thân. Có tích nói ngày Mão tháng Mão năm Thân thuộc thời Lê là con vua Đế Thích thiên đình.  Ngày tiệc của Bà là ngày mão đầu tiên của năm.

Quyền lực: Quyền của chầu bà là cai quản 36 động sơn trang
Đền chính:  Đông Cuông, Tuần Quán, Bảo Lạc

3. Chầu bà đệ tam

Tên đầy đủ: Đệ tam thủy tinh công chúa là sự hiện hóa của Mẫu đệ tam.
Đền thờ chính:  Đền thờ chầu ở đền Rồng, đền Nước, đền Hàn Thanh Hóa, đền Mẫu Thoải Lạng Sơn và các cửa sông cửa bể.

4. Chầu bà đệ tứ

Tên đầy đủ: Đệ tứ tùy tòng công chúa theo tương truyền là bà Chiêu Dung công chúa, là tùy tướng của Hai Bà Trưng, một trong tám tướng hồng nương. 
Nhiệm vụ: Chầu là tùy tòng hầu cận bên Mẫu tam tòa, làm việc nội cung quản lý sổ sách trần gian.
Đền chính:  Chầu mặc áo vàng chít khăn buồm, hiện có đền chầu ở phủ Giầy, đền Cây Thị Thanh Hóa, Đền Thượng Lào Cai, đền chầu đệ tứ Gia Lâm.

5. Chầu đệ Ngũ suối Lân ( Chầu Năm Suối Lân)

Sắc phong:  Các triều đại gia phong anh hùng liệt nữ.
Đền thờ chính:  Đền thờ Chầu hiện nay ở cửa Rừng suối Lân Lạng sơn. 
Chầu Năm Suối Lân. Chầu Năm vốn là người Nùng, dưới thời Lê Trung Hưng ( còn có tài liệu ghi lại rằng, chầu là công chúa tìm nơi thanh vắng, đền cảnh Suối Lân thì chầu ở lại giúp dân), theo lệnh vua, chầu trấn giữ cửa rừng Suối Lân bên dòng sông Hóa, coi sóc khắp vùng sông Hóa. Ở đó chầu không chỉ trấn giữ nơi sơn lâm mà còn giúp dân làm ăn, dạy dân đi rừng, làm nương. Sau này, chầu hóa tại đó và hiển linh giúp dân thuần phục mọi loài ác thú, trừ diệt sơn tinh, ma quái. Tương truyền vào những đêm thanh, chầu hiện hình cùng 12 cô hầu cận bẻ lái giữa dòng sông Hóa.
Thông thường thì Chầu Năm ít ngự đồng hơn là Chầu Lục, chầu chỉ thường ngự trong ngày tiệc vui hoặc những ai sát căn về chầu thì mới hay hầu. Tuy nhiên Chầu Năm cũng là vị chầu bà trên sơn trang nên có đôi khi người ta cũng thỉnh chầu về chứng tòa Sơn Trang. Chầu ngự về đồng thường mặc áo màu lam (bây giờ ở một số nơi, để tránh áo Chầu Năm trùng với áo Chầu Lục thì người ta thường dâng chầu áo xanh thiên thanh và coi đó là màu áo của dòng Suối Lân hoặc chầu cũng có thể mặc áo màu xanh như của Chầu Đệ Nhị), chầu khai cuông rồi múa mồi. Chầu Năm là vị chầu bà cũng có thể chứng cho con nhang đệ tử đội mâm giầu trình.
Đền thờ Chầu Năm Suối Lân được lập bên bờ con sông Hóa, qua cầu Sông Hóa 2 thuộc huyện Hữu Lũng, Lạng Sơn, tên là Đền Suối Lân, dòng suối Lân chảy cạnh đền quanh năm nước trong veo, xanh ngắt. Ngày tiệc chầu được tương truyền là ngày 20/5.

6. Chầu Lục 

Tên khác: Mế lục cung nương, lục cung đô thống.
Đền thờ chính: Đền thờ Chầu ở Hữu Lũng  (Đền 94) Lạng Sơn, Cây Xanh Tuyên Quang
Thân thế: Theo tương truyền Chầu là con gái tù trưởng người Nùng Hữu Lũng Lạng Sơn, mẹ là công chúa nhà Trần, hạ sinh vào thượng tuần tháng 9 ngày 10 năm Thân. Chầu là hiện thân của Mẫu Liễu Hạnh, con vua cha Ngọc Hoàng, làm rơi chén ngọc nên bị đầy xuống trần gian 15 năm.
Tương truyền, chầu vốn là tiên nữ trên Thiên Đình, chẳng may để rơi chén ngọc nên bị trích giáng xuống trần gian. Chầu giáng sinh vào nhà họ Trần (cha họ Trần, mẹ họ Hoàng) vốn là lệnh tộc trên miền Lạng Sơn (lại có tài liệu cho rằng Chầu Bà giáng sinh vào nhà họ Quách vào giờ Mão, ngày Mão, tháng Mão, năm Kỉ Mão, được đặt tên là Quách Thị Hồng Hoa), được 19 năm thì mãn hạn về chầu Đế Đình, nhưng vì chầu còn thương nhớ phụ mẫu nơi trần gian nên Ngọc Đế cho bà hiển thánh, cai giữ miền non ngàn sơn trang, nơi rừng Chín Tư, Hữu Lũng. Cũng như Chầu Năm, Chầu Lục hiển ứng giúp dân làm trồng trọt. Tuy anh linh nhưng bà cũng rất đành hanh, còn lưu truyền rằng, chầu thường cùng các bạn tiên nàng giả làm các cô gái người Nùng, bán hàng, ung dung cợt khách qua đường.
Chầu Lục cũng là một trong các vị chầu danh tiếng trên ngàn có lẽ bởi vì chầu rất hay bắt đồng. Cũng như Chầu Đệ Nhị, người ta cũng thường hay thỉnh Chầu Lục về ngự đồng. Đôi khi Chầu Lục lại là giá chầu về sang khăn cho đồng tân lính mới và chứng đàn Sơn Trang trong lễ mở phủ. Chầu Lục cũng có thể chứng mâm giầu trình. Khi ngự đồng, chầu mặc áo màu lam (hoặc màu chàm xanh), khai cuông rồi múa mồi.
Đền thờ Chầu Lục Cung Nương được lập tại thôn Chín Tư, xã Hòa Lạc, huyện Hữu Lũng tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu hạ phàm và hiển thánh) được gọi là Đền Lũng hay Đền Chín Tư. Trong năm ngày tiệc Chầu Lục có hai ngày là ngày 10/5 âm lịch (có người nói đó là ngày đản sinh của chầu nhưng điều này cũng chưa chắc chắn) và ngày 20/9 âm lịch (có người cho đó là ngày hóa, có người lại cho rằng đó mới là ngày đản sinh của chầu chứ không phải là 10/5 âm lịch).

7. Chầu Bảy Tân La, Chầu bẩy Kim Giao

Thân thế: Theo tương truyền Chầu là tướng của Hai Bà Trưng hạ sinh ở Mỏ Bạch Thái Nguyên, khi thất thế Chầu hóa thân tại Tân La
Tước phong:  Chầu anh linh giúp dân giúp nước, các đời truy tặng anh hùng liệt nữ. 
Đền thờ chính: Đền thờ Chầu ở Tân La, Mỏ Bạch…

Chầu Bảy Kim Giao. Chầu Bảy vốn là người Mọi, chầu giáng thế để giúp dân. Chầu hạ sinh vào gia đình ở đất Thanh Liên, Mỏ Bạch, Thái Nguyên, sau này chầu giúp dân dẹp loài xâm lăng trên đất Thái Nguyên rồi bà cũng là người giúp người dân tộc Mọi biết làm ăn canh tác trồng trọt chăn nuôi (còn có người cho rằng bà chính là người dạy dân biết trồng chè tuyết). Sau này khi về thiên, chầu được giao quyền quản cai núi rừng Mỏ Bạch, Thái Nguyên, tương truyền vào những đêm canh khuya chầu thường hiện hình dạo chơi, cùng các tiên nàng hội họp giữa rừng xanh (Lại có tài liệu cho rằng bà là một vị nữ tướng dưới thời Hai Bà Trưng, cùng Chầu Bát đánh giặc và sau được thờ tại Tân La, Hưng Yên nên còn gọi là Chầu Bảy Tân La).

Chầu Bảy là vị chầu bà ít khi ngự đồng nhất trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà. Rất hiếm khi thấy có người nào hầu mà bà về ngự. Nếu có chỉ là khi về đền chính của chầu, bà ngự đồng mặc áo màu tím (hoặc màu xanh), khai cuông rồi múa mồi.

Đền thờ Chầu Bảy Kim Giao là Đền Kim Giao tại Thanh Liên, Mỏ Bạch thuộc tỉnh Thái Nguyên (tương truyền là nơi còn in dấu tích của bà năm xưa).

8. Chầu Bát

Tên khác: Chầu Tám thượng ngàn, Bát nàn đại tướng Đông Nhung 

Thân thế: Chầu quê ở vùng Phượng Lâu Bạch Hạc. Chầu dấy binh khởi nghĩa theo Hai Bà Trưng, sau khi thất thủ Chầu rút chạy từ Đồng Mỏ về Thái Bình ẩn náu trong chùa Tiên La. Khi giặc Hán phát hiện đã bao vây, Chầu quyết một lòng kiên trung mở đường máu tử tiết ở giữa sân chùa anh linh đã dậy tiếng đồn khắp bốn phương nức tiếng âu ca đá vàng ghi tạc sử xanh muôn đời, trải qua các triều đại sắc phong anh hùng liệt nữ. Chầu về đồng mặc áo vàng chít khăn củ ấu, ra tay dấu 8 ngón, lưng đeo kiếm cờ khai quang múa kiếm múa cờ.

Có tài liệu cho rằng: 

Chầu là vị chầu bà giáng sinh dưới thời nước ta còn trong ách đô hộ của nhà Đông Hán, tên thật của bà là Vũ Thị Thục Nương, con gái thầy thuốc Vũ Chất, nguyên quán ở Phượng Lâu, Bạch Hạc (nay thuộc Vĩnh Phúc).
Tương truyền, gia đình họ Vũ vốn thuộc dòng hào phú, một hôm ông Vũ Chất đi dạo chơi qua ngọn núi nọ, thấy ngôi miếu thờ Sơn Tinh Công Chúa được lập từ thời thượng cổ, nay hoang tàn đổ nát, ông thành tâm liền huy động nhân dân quanh vùng góp tiền của công sức để tu sửa lại ngôi đền khang trang hơn. Khi về đến nhà chợt nằm mộng thấy có người tiên nữ đến xin làm con để trả ơn đã sửa đền. Liền đó, vợ ông thấy gió thu thổi, rồi có bóng người tiên nữ hiện ra trong làn hoa rơi trước cửa, kế đến thái bà thụ thai, đến ngày rằm tháng tám thì hạ sinh được chầu bà. Bà là người con gái xinh đẹp đảm đang lại giỏi cung kiếm. Thái Thú Giao Châu lúc bấy giờ là Tô Định đem lòng si mê, muốn cùng bà kết duyên nhưng bà không chịu. Hắn bèn sai người giết hại cha bà cùng với lang quân của bà là Phạm Danh Hương. Thù nhà nợ nước, bà bèn tập hợp quân dân phất cờ khởi nghĩa. Vào năm 40 (SCN), chầu cùng với Hai Bà Trưng đánh đuổi được quân xâm lược Đông Hán (trong tích này còn lưu truyền câu chuyện, khi dấy binh ở Tiên La thì chầu bà đã nghe tiếng Hai Bà Trưng hiệu triệu, nhưng còn băn khoăn chưa biết có nên tập hợp nghĩa quân cùng Hai Bà không, thì vào đêm đó, chầu nằm mơ thấy nữ thần vâng lệnh Ngọc Hoàng xuống trao cho chầu bà lá cờ thần (cờ xan) và khuyên chầu nên theo Hai Bà Trưng phất cờ dẹp giặc, và Chầu Bát đã làm theo ý trời, về Mê Linh tụ nghĩa), chầu được Bà Trưng Vương phong cho là Bát Nàn Đông Nhung Đại Tướng Quân (còn có cách giải thích là chầu đã giúp dân thoát khỏi tám nạn của quân đô hộ nên có danh “Bát Nàn Tướng Quân” là do đọc chệch từ “bát nạn”), giao cho bà cùng với bà Lê Chân (Thánh Thiên Công Chúa) trấn giữ miền duyên hải (từ Hải Phòng đến Thái Bình). Năm 43 (SCN), sau ba năm nước nhà độc lập, quân Đông Hán dưới quyền chỉ huy của Mã Viện, quay lại xâm chiếm nước ta, bà cùng với Hai Bà Trưng kiên cường đánh trả, nhưng do thế yếu ( trong trận quyết chiến cuối cùng, quân giặc đã dùng kế hiểm, biết binh sĩ ta toàn nữ giới, nên chúng hò nhau khỏa thân xông vào, các bà không chống đỡ nổi phải rút lui), cuối cùng chầu cũng theo gương hai bà, trẫm mình để bảo toàn khí tiết (có tài liệu còn ghi lại khi bà kéo quân về đến ngã ba Nông thì đột nhiên có dải lụa hồng từ đâu bay tới, thế là quân giặc liền hò réo để bao vây bà, thi thể của bà xẻ làm tám mảnh, trôi về đâu, hiển ở đấy để nhân dân lập đền thờ).      

Chầu Bát cũng thường hay ngự về đồng (nhất là trong những dịp tiệc vui hoặc về đền chầu). Khi ngự đồng bà thường mặc áo màu vàng (trước đây thì thường lại là màu xanh), đầu đội khăn đóng (khăn vành dây) màu vàng, có dải von hoặc vỉ lét thắt dải buộc, sau lưng dắt kiếm và cờ lệnh, tay múa kiếm và cờ lệnh ngũ sắc.      

Đền thờ Chầu Tám Bát Nàn có ở rất nhiều nơi: nổi tiếng nhất có Đền Tiên La thuộc thôn Đoan Hùng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình (tại đây là nơi nhân dân chịu ơn chầu cũng là nơi di thể chầu trôi về, nên ở đây chầu còn được tôn xưng hẳn là Mẫu Tiên La, nên cũng có khi gọi là Chầu Bát Tiên La), tại đây vẫn còn lưu truyền câu chuyện: khi Chầu Bát đã thác ở trên ngàn, chầu còn hóa phép đốn cây rừng, đóng thành bè gỗ theo dòng trôi về bến sông gần đền Tiên La rồi bà báo mộng cho người thủ đền cùng dân quanh vùng ra đón bè về để tu sửa đền. Tiếp đến là Đền Đồng Mỏ, thuộc thị trấn Đồng Mỏ, tỉnh Lạng Sơn (tương truyền là nơi chầu hóa), ngoài ra còn có Đền Tân La ở Dốc Lã thuộc tỉnh Hưng Yên (là nơi chầu đóng quân) và Đền Tiên La (đền vọng) hay còn gọi là Đền Tám Gian tại đường Lê Lợi, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng (cũng là nơi di hài chầu trôi về, tại đây bà còn được tôn xưng với tên Chúa Bát Nàn, thường được hầu sau hàng Tam Vị Chúa Mường, về làm lễ tấu hương và khai quang như quan lớn chứ không hầu vào hàng Tứ Phủ Chầu Bà như thông thường) và còn rất nhiều đền khác trong tỉnh Thái Bình và nơi quê nhà của bà ở tỉnh Vĩnh Phúc. Ngày tiệc của Chầu Bát là ngày 17/3 âm lịch (là ngày chầu hóa).

Đề thờ chính: Đền thờ Chầu ở Lạng Sơn (nơi Chầu đánh trận và để lại lá cờ thần), ở Tiên La Thái Bình (nơi Chầu ẩn náu và tiết khí hi sinh).

9. Chầu Cửu, Chầu Chín Cửu Tinh

Thân thế:  Chầu bà vốn là tiên nữ trên Thiên Đình, sinh giáng ở đất Bỉm Sơn, Thanh Hóa, làm phúc giúp dân.  Sau này khi thác hóa bà trờ thành vị Chầu Bà kề cận, biên chép sổ sách bên Cửu Trùng Thiên Cung Vạn Hoa Vương Mẫu. Khi thanh nhàn chầu thường cùng bạn cát dạo chơi khắp nơi, giáng hiện tại đất Thanh Hóa (có tài liệu cho rằng bà cũng là người cai quản chín mạch nước giếng âm dương trên đất Thanh. Theo âm Hán: Cửu là chín, Tỉnh là giếng nên Cửu Tỉnh cũng có nghĩa là chín giếng), có khi chầu cũng giá ngự trong Đền Sòng (vì vậy đôi khi người ta cũng gọi là Chầu Cửu Đền Sòng). Cũng có quan niệm cho rằng bà là Thụy Hoa Công Chúa (hay có một số sách nói là Chầu Quỳnh) trên Thiên Cung, xuống Đồi Ngang, Phố Cát, kề cận bên Mẫu Liễu Hạnh.
Chầu Cửu thường hay ngự đồng khi về các ngôi đền ở Phủ Dày, Nam Định hoặc Đền Sòng, Thanh Hóa. Khi ngự đồng chầu mặc áo màu đỏ (có một số nơi dâng chầu áo màu hồng), khai quang rồi múa mồi.      

Vì coi là kề cận bên Mẫu nên Chầu Cửu thường được thờ chính ở những ngôi đền chính của Mẫu như Đền Rồng, Thanh Hóa và Phủ Bóng, Nam Định ngoài ra ở một số đền còn thờ chầu làm Chầu Thủ Đền coi giữ trong bản đền. Nhưng ngôi đền được coi là đền chính của chầu là Đền Sòng Sơn ở Bỉm Sơn, Thanh Hóa. Khi chầu ngự đồng văn thường hát:

10. Chầu mười Đồng Mỏ

Tên khác: Mỏ Ba công chúa
Thân thế:  Chầu là con gái tù trưởng ở đất Đồng Mỏ. Sinh thời Chầu giỏi võ và kiếm cung, khi vua Lê Thái Tổ hiệu triệu toàn dân đánh giặc, Ngài đã chiêu binh ra sức giúp triều đình. Sau khi giặc tan triều đình phong công. Chầu giúp dân lập ấp tế trợ cứu bần. Đến mùa thu Chầu mãn hạn về tiên. Triều đình phong tặng anh hùng liệt nữ, tiếng Chầu anh linh biến hiện khắp Bắc Trung Nam xa gần nô nức trảy hội Mỏ ba. Chầu được Ngọc Hoàng sắc phong Khâm sai bốn phủ – một trong những vị Chầu tối linh được nhân dân và con nhang đệ tử phụng sự loan giá. Chầu về ngự áo vàng khăn chữ nhân, ra tay dấu 10 ngón, lưng đeo kiếm cờ múa kiếm múa cờ ngự đồng loan giá phán chỉ thông truyền chứng lễ hoa quả lương thực.

Có tài liệu cho rằng:

Chầu Mười vốn là người Tày, dưới thời Lê Thái Tổ Trung Hưng khởi binh chống giặc. Chầu sinh quán trong một gia đình có truyền thống đao cung ở đất Mỏ Ba (Đồng Mỏ), Lạng Sơn. Sau này, chầu trở thành vị nữ tướng tài ba, tập hợp quân dân các dân tộc ở đất Đồng Mỏ, giúp vua Lê đánh đuổi giặc Minh. Vua rất tin tưởng, giao cho chầu trấn giữ các châu, nơi cửa ải Chi Lăng. Trong trận quyết chiến Chi Lăng, Xương Giang, chầu đã lập chiến công, chém cụt đầu tên tướng giặc là Liễu Thăng. Kháng chiến thắng lợi, bà được vua phong công, giao cho cai quản vùng Mỏ Ba, Đồng Mỏ, trấn giữ ải Chi Lăng. Tại vùng Mỏ Ba, ba giúp dân lập xóm ấp làng bản, dạy dân làm ăn, được già trẻ xa gần ai ai cũng mến phục. Đến cuối mùa thu thì chầu về tiên.

Chầu Mười thường hay về ngự đồng trong các dịp tiệc vui hoặc các cửa đền ở đất Lạng Sơn. Khi ngự đồng, chầu thường mặc áo vàng, một múa kiếm, tay kia múa cờ lệnh (hoặc mồi) là khi chầu xông pha nơi trận mạc.

Đền thờ chính:   Đền Chầu Mười được lập ngay sát cửa ải Chi Lăng, nơi bà trấn giữ năm xưa, chính là Đền Chầu Mười Đồng Mỏ hay Đền Mỏ Ba, lập tại xã Mỏ Ba, thị trấn Đồng Mỏ, Lạng Sơn.

11. Chầu bé Bắc Lệ

Thân thế: Chầu bé Bắc Lệ công chúa là con gái người Nùng ở Hữu Lũng Lạng Sơn, bị giặc cưỡng bức đã hòa mình xuống sông Bắc Lệ. Chầu anh linh giúp dân giúp nước độ người viễn sứ tha hương, lúc lại hiện hóa ra người bán hàng, chữa bệnh. Ngài là hiện thân của Mẫu đệ nhị thượng ngàn.
Đền thờ chính: Đền thờ Chầu tại Đền Công Đồng Bắc lệ.    

Chầu Bé vốn gốc người Nùng, dưới thời Lê Thái Tổ, chầu giáng sinh xuống miền Bắc Lệ, Lạng Sơn. Chầu cũng là vị có công giúp dân, giúp nước. Có tài liệu cho rằng Chầu Bé tuy là một vị chầu bà người Nùng trên Lạng Sơn, nhưng chầu lại chính là do Mẫu Thượng Ngàn hóa thân, giúp vua Lê Thái Tổ trong cuộc kháng chiến mười năm chống quân Minh, và sau này được vua phong là Lê Mại Đại Vương. Vậy nên đôi khi Chầu Bé cũng được đồng nhất với Bà Chúa Sơn Trang. Chầu dạo chơi khắp chốn thắng cảnh hữu tình, dạy dân chúng trồng trọt chăn nuôi, lên rừng làm ruộng bậc thang, xuống sông suối đánh bắt cá tôm. Tương truyền, Chầu Bé có phép thần thông do Đức Thái Tổ ban quyền có thể lay núi chuyển ngàn, đôi lúc rong chơi chầu lấy tàu lá giả làm hàng bán để trêu đùa người trần gian. Tuy đành hanh sắc sảo nhưng chầu cũng hết sức nhân hậu, có việc dữ lành chầu đều mách bảo cho người trần.

Chầu Bé cùng với Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục, là một trong ba vị Chầu Bà trên Thượng Ngàn hay về ngự đồng nhất. Tuy thứ bậc chầu gần như là cuối cùng trong hàng Tứ Phủ Chầu Bà nhưng không một ai hầu mà chầu không ngự đồng. Chầu ngự về đồng thường hay mặc áo đen (hoặc xanh chàm, còn trước đây chầu chỉ mặc quầy và áo ngắn đến hông), chân đi xà cạp, trên vai đeo gùi hoa, chầu về đồng thường khai quang rồi múa mồi. Đôi khi Chầu Bé có thể giống như Chầu Đệ Nhị và Chầu Lục: chầu về chứng tòa Sơn Trang trong đàn mở phủ, sang khăn cho tân đồng hoặc chứng mâm giầu trình.

Đền thờ chính của Chầu Bé là ngôi đền nhỏ bên cạnh đền Bắc Lệ ở xã Hữu Lũng, tỉnh Lạng Sơn với ngày tiệc chầu thì có nơi nói là 12/9 âm lịch, có nơi nói là 19/9 âm lịch. Ngoài Chầu Bé Bắc Lệ ra thì ở một số bản đền có các Chầu Bé cũng trên Thượng Ngàn, là Chầu Bé coi giữ ở đền đó và chỉ khi về chính đền, các vị đó mới ngự.

12. Chầu bà bản đền

Tên khác: Bản Đền công chúa hay Thủ điện công chúa 
Thân thế: Chầu là hiện thân của các vị thánh Mẫu tùy vào bản đền đó và địa phương mà Ngài thị hiện, vì vậy Chầu về đồng các màu sắc, thường người hầu Chầu thủ đền vào đầu năm thì mặc áo hồng khăn hồng, cuối năm thì mặc áo xanh khăn xanh.        
Hiện nay người ta không hầu và cũng không biết đến giá Chầu nữa nhưng văn Chầu thủ đền và một số nơi vẫn được lưu giá và hầu Ngài.

III. Văn khấn Đền phủ

Nam mô a di Đà Phật! (3 lần)
Con lạy chín phương trời, mười phương chư Phật, chư phật mười phương.
Cung thỉnh chư Thánh, cung thỉnh chư thiên cung tấu thỉnh thiên đình đại đế.
Con xin sám hối Tam phủ thần vương, tứ phủ thánh đế.
Con xin sám hối Thiên phủ Thánh Đế – Cao thiên Thượng thánh - Đại từ Nhân giả – Huyền khung Cao Thượng đế - Ngọc Hoàng Đại Thiên tôn.
Con sám hối Nhạc Phủ Thánh Đế – (Tản Viên Sơn Thánh) - ngũ nhạc thần vương – năm phương sơn động.
Con sám hối Thủy Phủ Thánh Đế – (Lạc Long Quân Đại Đế) – Bát Hải Long Vương – tám phương cửa bể.
Con sám hối Địa phủ Thánh Đế - thập điện minh vưong tòa chương địa phủ Bắc Cực Trung Thiên Tam nguyên tam phẩm tam quan.
Con sám hối Đại Thánh Nam Tào Lục Ty duyên thọ tinh quân.
Con sám hối Đại Thánh Bắc Đẩu Cửu hoàn giải ách tinh quân Cửu tinh thiên chúa thập nhị bát tú chư bộ thiên binh chư dinh văn võ.
Con sám hối tấu lạy quốc mẫu vua bà bơ tòa tiên thánh tứ phủ Thánh Mẫu:
Kính lạy Cửu trùng thánh mẫu bán thiên công Chúa Thiên tiên thánh mẫu
Kính lạy địa tiên thánh mẫu quỳnh hoa Liễu Hạnh Vân Hương Thánh Mẫu Mã Hoàng Công chúa, sắc phong Chế Thắng Hoà Diệu đại vương, gia phong Tiên Hương thiên tiên Thánh Mẫu.

Kính lạy Thánh Mẫu Đệ Tam thủy cung, Xích Lân long Nữ,Thủy Tinh Công chúa. Kính lạy Đức Mẫu thượng ngàn Diệu nghĩa diệu tín thiền sư Tuần Quán Đông Cuông đệ nhị đỉnh thượng cao sơn triều mường Sơn tinh công chúa Lê Mại Đại Vương.
Con lạy trần triều hiển thánh Hưng Đạo Đại Vưong Trần triều Khải Thánh , Vương Phụ Vưong mẫu Vương phu nhân Tứ vị Vưong tử - Nhị Vị Vương cô - vương tế vương tôn Liệt vị tướng tướng công đồng Trần Triều.
Con lạy Tam phủ Công Đồng, Tứ phủ Vạn linh Bách vị các quan ngũ vị tôn quan: Quan đệ nhất Thượng Thiên; Quan đệ nhị thượng ngàn; Quan đệ tam thoải phủ; Quan đệ tứ khâm sai; Quan đệ ngũ tuần tranh. Con sám hối điều thất tôn quan - Hoàng triệu tôn quan.
Con lạy tứ phủ chầu bà thập nhị chầu bà: Chầu đệ nhất thượng thiên; Chầu đệ nhị thượng ngàn; Chầu đệ tam thủy phủ; Chầu đệ tứ khâm sai; Chầu năm Suối Lân; Chầu sáu Lục Cung ; Chầu bảy Kim Giao; Chầu tám Bát Nàn; Chầu chín cửu tỉnh; Chầu mười Mỏ Ba; Chầu Bé Bắc Lệ; Chầu bà thủ đền.

Con lạy Tứ phủ thánh hoàng thập vị thánh hoàng: sám hối ông bơ thoải quốc động chủ hưng long, ông bảy Bảo Hà, ông mười Mỏ hạc nghệ an.
Sám hối tứ phủ thánh cô: Cô đệ nhất thượng thiên; Cô đôi bồng lai; Cô bơ Thác Hàn; Cô tư tây hồ; Cô năm Suối Lân; Cô sáu Lục Cung; Cô bảy Kim Giao; Cô tám đồi chè; Cô Chín Sòng Sơn; Cô mười Đồng Mỏ; Cô bé sơn lâm; Cô bé bản đền
Sám hối tứ phủ thánh cậu: cậu cả; cậu đôi; cậu bơ; cậu bé đồi ngang.
Con lạy ngũ dinh thần tướng - ngũ hổ thần quan.
Con lạy đại tướng thanh xà - bạch xà tướng quân.
Con lạy công đồng các bóng các giá, mười tám cửa rừng, mười hai cửa bể.
Con lạy chầu chúa thủ đền cùng quan thủ điện, thổ địa thần kỳ thần linh bản xứ.
Đệ tử con là:………………………………………. ……………………………
Ngụ tại:…………………………………….…………………………………….
Kim niên kim nguyệt, cát nhật lương thời ….niên…nguyệt…..thời.
Đệ tử con nhất tâm nhất lễ đêm tưởng ngày mong nhất tâm chí thiết nhất dạ chí thành nhất tâm tưởng vạn tâm cầu - tu thiết nhang hoa lễ vật tờ đơn cánh sớ.
Mang miệng tới tâu – mang đầu tới bái – cửa đình thần tam tứ phủ.
Trên mẫu độ dưới gia hộ mẫu thương – vuốt ve che chở – phù hộ độ trì.
Cho con: ba tháng hè chín tháng đông – đầu năm chí giữa nửa năm chí cuối, Tứ thời bát tiết – tháng thuấn ngày nghiêu – phong thuận vũ hòa – tai qua nạn khỏi. Mẫu cho con được sáng hai con mắt – bằng hai bàn chân ; Mẫu ban lộc dương tiếp lộc âm – cho lộc mùa xuân cho tài mùa hạ; Cho tươi như lá cho đẹp như hoa – phúc lộc đề đa tiền tài mang tới; Mẫu cho con lộc ăn lộc nói – lộc gói lộc mở, lộc gần lộc xa; Hồ hết lại có hồ vơi lại đầy – điều lành mang đến điều dữ mang đi; Mẫu cứu âm độ dương cứu đường độ chợ – vuốt ve che chở nắn nở mở mang; Cải hung vi cát cải hạo vi tường – thay son đổi số nảy mực cầm cân; Mẫu phê chữ đỏ Mẫu bỏ chữ đen – cho con đựơc trăm sự tốt vạn sự lành; Trên quý dưới yêu trên vì dưới nể – cho gặp thầy gặp bạn gặp vạn sự lành; Mẫu ban danh ban diện ban quyền –  cho con có lương có thực có ngân có xuyến - tài như xuyên chí lộc tựa vân lai; Cầu tài đắc tài cầu lộc đắc lộc – cầu bình an đắc bình an; Trồng cây đắp phúc cho con được nở cành xanh lá phúc lộc đề đa; Cho trên thuận dưới hòa – trên bảo dưới nghe trên đe dưới sợ; Mẫu cho nước chảy một dòng – thuyền xuôi một bến, bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ; Năm xung Mẫu giải xung – tháng hạn giải hạn; Cho gia trung con được trong ấm ngoài êm, nhân khang vật thịnh duyên sinh trường thọ.
Đệ tử con người trần mắt thịt nhỡn nhục nan chi việc âm chưa tường việc dương chưa tỏ. Tuổi con còn trẻ, tóc con còn xanh ăn, con ăn chưa sạch, con bạch chưa thông. Ăn chưa nên đọi, nói chưa nên lời, không biết kêu sao cho thấu, tấu sao cho tường. Con biết tới đâu con tâu tới đấy, ba điều không sảy bảy điều không sai. Trăm tội mẫu xá vạn tội mẫu thương. Mẫu xá u xá mê xá lỗi xá lầm. Mẫu soi đường chỉ lối cho con biết đường mà lội biết lối mà lần.
Hôm nay đệ tử con lễ bạc tâm thành, con giàu một bó khó một nén, mong Mẫu gia hộ cho con ạ.
Mẫu chấp kỳ lễ vật -- chấp lễ chấp bái
        Chứng tâm cho lời kêu tiếng khấn của con bay như phượng lượn như hoa tới cửa ngài ngồi tời ngai ngài ngự.
        Cho con sở nguyện như ý sở cầu tòng tâm.
        Con Nam Mô A Di Đà Phật (3 lần).

Bình luận hoặc góp ý về nội dung

Xem ngay chia sẻ hay khác

  1. Tử vi tuổi Dần năm 2018 (Tạo lúc: )
  2. Tử vi tuổi Dậu năm 2018 (Tạo lúc: )
  3. Tử vi tuổi Hợi năm 2018 (Tạo lúc: )
  4. Tử vi tuổi Mão năm 2018 (Tạo lúc: )
  5. Tử vi tuổi Mùi năm 2018 (Tạo lúc: )
  6. Tử vi tuổi Ngọ năm 2018 (Tạo lúc: )
  7. Tử vi tuổi Sửu năm 2018 (Tạo lúc: )
  8. Tử vi tuổi Thân năm 2018 (Tạo lúc: )
  9. Tư vi tuổi Thìn năm 2018 (Tạo lúc: )
  10. Tử vi tuổi Tuất năm 2018 (Tạo lúc: )

Danh mục